Diễn biến Chiến_dịch_Budapest

Giai đoạn thứ nhất

Kế hoạch tấn công Budapest của Liên Xô trong giai đoạn 1

22 giờ ngày 28 tháng 10 năm 1944, Bộ Tổng tham mưu Liên Xô có văn bản quyết định khẳng định mệnh lệnh của Tổng tư lệnh tối cao I. V. Stalin: "Ngày mai, phương diện quân Ukraina 2 phải mở ngay cuộc tấn công vào Budapest".[10] Không bảo vệ được ý kiến của mình, Nguyên soái R. Ya. Malinovsky buộc phải chấp hành mệnh lệnh.

Do việc chuẩn bị phải tiến hành rất vội vã nên mãi đến trưa ngày 29 tháng 10, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 (Liên Xô) mới tập kết được đội hình tại Chongrad (???) trên bờ Đông sông Tisza. 14 giờ ngày 29 tháng 10 năm 1944, Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) mới bắt đầu mở các cuộc tấn công trên hướng Baija - Kechkemet. Các sư đoàn thuộc Tập đoàn quân xe tăng 2 (Đức) và Tập đoàn quân 3 (Hungary) liên tục tổ chức nhiều trận phản kích khiến cho Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) chỉ tiến lên được từ 4 đến 6 km trong ngày đầu tiên. Phương diện quân Ukraina 3 buộc phải tung các tập đoàn quân cận vệ số 2, tập đoàn quân cận vệ số 7 và tập đoàn quân Romania số 1 vào mặt trận, đồng thời một phần lớn lực lượng không quân Xô Viết cũng được tập trung vào khu vực này nhằm đảm bảo áp đảo được các hỏa điểm và ổ đề kháng mạnh của phía Đức.[10] Đến ngày 30 tháng 10, các quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 (Liên Xô) tham chiến đã đẩy lùi đòn phản kích của Sư đoàn xe tăng 20 (Đức) và Sư đoàn xe tăng 1 (Hungary). Ngày 31 tháng 10, Tập đoàn quân 46 giải phóng KiskorosHeren (???). Ngày 1 tháng 11, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2 đánh bật Sư đoàn xe tăng 20 (Đức) khỏi thành phố Kecskemet. Đến ngày 2 tháng 11, Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đã tiến đến thành phố Alyponemedi (???), phía Nam ngoại ô Budapest 15 km.

Tuy nhiên, trong thời gian này, lợi dụng Phương diện quân Ukraina 4 phải tạm thời dừng chân ở ChopUzhhorod, quân Đức đã cấp tốc điều động nhiều binh lực xuống chi viện cho khu vực Budapest. Ngày 3 tháng 11, tướng Johannes Frießner điều động thêm Sư đoàn xe tăng 1 tiến xuống Alyponemedi phối hợp với các sư đoàn của Tập đoàn quân 3 (Hungary) chặn đứng mũi đột kích của Tập đoàn quân 46 và 2 quân đoàn cơ giới cận vệ Liên Xô. Ở giữa mặt trận, Tập đoàn quân cận vệ 7 được tăng cường Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev (2 quân đoàn kỵ binh, 1 quân đoàn cơ giới) đã thất bại trong cuộc vượt sông Danube sang Szolnok. Tướng Maximilian Fretter-Pico sử dụng Quân đoàn xe tăng 4 (thiếu Sư đoàn xe tăng 1) phối hợp với Quân đoàn bộ binh 2 (Hungary-Đức) mở cuộc phản kích vượt sang bờ Đông sông Danube, buộc Tập đoàn quân cận vệ 7 (Liên Xô) phải dừng tấn công để đối phó. Ngày 4 tháng 11, cánh quân xung kích của Quân đoàn xe tăng 4 (Đức) buộc phải rút về bờ Tây sông Danube nhưng Tập đoàn quân cận vệ 7 và Cụm kỵ binh Pliyev (Liên Xô) đều đã bị tiêu hao, không còn đủ sức để phát triển tấn công.

Tại cánh Bắc, Tập đoàn quân 2 (Hunggary) phối hợp với Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) với binh lực gồm các sư đoàn xe tăng 13, 23, Sư đoàn cơ giới "Feldhernhalle", Sư đoàn bộ binh 46 (Đức) và 4 sư đoàn bộ binh Hungary bố trí phòng thủ trên tuyến Miskolc - Eger - Hatvan đã chặn đứng cuộc tấn công của các tập đoàn quân 40, 27 và 53 (Liên Xô) vào ngày 3 tháng 11.[12] Tình hình thất lợi làm cho Bộ Tổng tham mưu quân đội Liên Xô phải đồng ý với đề nghị của Nguyên soái R. Ya. Malinovsky cho dừng cuộc tấn công để sửa đổi kế hoạch, bố trí lại binh lực và tăng viện về người và phương tiện. Sau khi xem xét các báo cáo của Bộ Tổng tham mưu và Hội đồng quân sự Phương diện quân Ukraina 2 gửi đến Yalta bằng điện mật, I. V. Stalin đã chấp thuận đề nghị đó.[16]

Giai đoạn thứ hai

Sĩ quan và các binh sĩ xe tăng Liên Xô nhận nhiệm vụ tấn công Budapest

Ngày 4 tháng 11, Đại bản doanh ra lệnh cho Phương diện quân Ukraina 2 mở rộng khu vực tấn công nhằm đánh bại cụm quân phòng thủ Budapest của Đức từ các hướng Bắc, Nam và Đông. Chiến sự lại bùng nổ dữ dội xung quanh Budapest.[12]

Ngày 7 tháng 11, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng I. A. Pliyev mở cuộc đột kích từ làng Újszász lên phía Bắc, đánh vào phía sau các vị trí phòng thủ của quân Đức tại hữu ngạn sông Tisza. Các tập đoàn quân 40, 27 và 53 cùng lúc mở các cuộc tấn công vượt sang bờ Tây sông Tisza. Ngày 10 tháng 11, Tập đoàn quân 46, Tập đoàn quân cận vệ 7 và các quân đoàn cơ giới cận vệ 2 và 4 (Liên Xô) cũng mở lại các cuộc tấn công trên khu vực Keskemet, Heren, Szekszard.[17]

Tại cánh Bắc, tướng Johannes Frießner đã điều các sư đoàn cảnh sát thiết giáp SS 3 và 4 từ hướng bắc Miskolc về gần Budapest, phối hợp với Quân đoàn xe tăng 3 và Tập đoàn quân 2 (Hungary) tăng mật độ phòng thủ trên hướng Đông Budapest. Ngày 11 tháng 11, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng Pliyev đã tiến công được 100 km dọc bờ Tây sông Tisza. Ngày 14 tháng 11, chủ lực của các tập đoàn quân 40, 27 và 53 (Liên Xô) đã tập kết đủ bên hữu ngạn sông Tisza và bắt đầu tấn công. Tuy nhiên, trước sức phòng thủ của 11 sư đoàn Đức - Hungary, cuộc tấn công phát triển rất chậm chạp trong bùn lầy. Dựa vào hệ thống phòng thủ thứ 2 được chuẩn bị trước, liên quân Đức - Hungary vẫn giữ được tuyến phòng thủ trên các dãy đồi từ Miskolc qua Eger và Hatvan đến Szegled. Các sư đoàn kỵ binh và các lữ đoàn cơ giới Liên Xô mở nhiều cuộc đột kích nhưng vẫn không vượt qua được tuyến phòng thủ này.[18]

Ngày 24 tháng 11 năm 1944, Nguyên soái S. K. Timoshenko sử dụng quyền của đại diện Đại bản doanh tại hướng Tây Nam quyết định dừng tấn công. Trong báo cáo cùng ngày gửi về STAVKA, ông nêu rõ nguyên nhân của quyết định đó:

  1. Với ưu thế tương đối về binh lực, Bộ Tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2 muốn tiêu diệt ngay cụm quân địch cùng lúc trên các hướng Miskolc, Eger và Hatvan. Xu hướng đó làm cho lực lượng bị phân tán và không tạo được ưu thế trên hướng tấn công chính. Cánh quân chủ lực của Phương diện quân có 24 sư đoàn bộ binh, 3 quân đoàn cơ giới, 1 quân đoàn xe tăng, 2 quân đoàn kỵ binh được bố trí như sau:
    • Hướng Miskolc: Tập đoàn quân 27 có 8 sư đoàn bộ binh tấn công trên chính diện rộng 50 km.
    • Hướng Eger: Tập đoàn quân 53 có 7 sư đoàn bộ binh tấn công trên chính diện rộng 45 km.
    • Hướng Hatvan: Tập đoàn quân cận vệ 7 với biên chế đủ 9 sư đoàn bộ binh tấn công trên chính diện rộng 55 km.
  2. Như vậy, các tập đoàn quân đang rải đều binh lực. Chỉ có Tập đoàn quân cận vệ 7 có ưu thế tương đối do 3 quân đoàn cơ giới, 1 quân đoàn xe tăng, 2 quân đoàn kỵ binh cũng hoạt động trên hướng này. Nhưng cả Cụm Pliyev lẫn các quân đoàn cơ giới đều đã bị tiêu hao trong các trận đánh dài ngày gần đây nên thực chất M. S. Sumilov (Tập đoàn quân cận vệ 7) cũng không chiếm ưu thế hơn bao nhiêu. Các cụm quân cơ động khi đột phá phòng tuyến địch đã hành động phân tán, không đủ pháo binh chi viện và không hiệp đồng với bộ binh.
  3. Các cán bộ chỉ huy các binh đoàn và cơ quan tham mưu của họ có phần chủ quan vì say sưa với thắng lợi ở Romania và Transilvania nên đã không bảo đảm tổ chức hiệp đồng binh chủng một cách chắc chắn.
  4. Tôi thấy STAVKA cần phải yêu cầu Phương diện quân Ukraina 2 xem xét lại quyết định trước đây để tập trung xây dựng cánh quân xung kích có ưu thế tuyệt đối hơn địch trên hai hướng:
    • Hướng Hatvan - Balaszadiarmat là hướng chủ công
    • Hướng Moskols là hướng phụ công.
S. K. Timoshenko[19]

Giai đoạn thứ ba

Xe tăng IS-2 của quân đội Liên Xô tham chiến ở khu vực Tây Nam Budapest

Những kiến giải của S. K. Timoshenko được Đại bản doanh chấp nhận và ngày 26 tháng 11, Phương diện quân Ukraina 2 nhận được chỉ thị phải tái tổ chức và củng cố lực lượng để nhanh chóng đạt được ưu thế lớn về binh lực so với quân Đức trong khu vực, đặc biệt phải tập trung một lực lượng lớn các đơn vị xe tăng và pháo binh nhằm tăng cường sức mạnh đột phá. Mũi tấn công chính do Tập đoàn quân cận vệ số 7 đảm nhiệm.[10]

  1. Nhằm đảm bảo sự thành công của chiến dịch, Tập đoàn quân cận vệ số 7 phải tập trung ít nhất 2 sư đoàn pháo cường kích.
  2. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 6 của Kravchenko sẽ tấn công tại khu vực của Shumilov. Nhằm củng cố binh lực của Tập đoàn quân số 46, Tập đoàn quân cận vệ số 7 chỉ được tung một quân đoàn cơ giới hóa vào mặt trận.
  3. Cụm Kỵ binh cơ giới hóa Pliyev sẽ phát triển tấn công sau tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 6.
  4. Điều chỉnh lại khu vực tác chiến của Tập đoàn quân cận vệ số 7, mở rộng xuống phía Tây Nam khu vực tấn công của Tập đoàn quân số 53.
ĐẠI BẢN DOANH[10]

Đợt tấn công mới được yêu cầu phải thực hiện không muộn hơn ngày 2 hoặc 3 tháng 12 năm 1944.

Giai đoạn thứ ba của Chiến dịch Budapest có sự thay đổi lớn về kế hoạch và tương quan lực lượng trên chiến trường. Từ ngày 27 tháng 11, Phương diện quân Ukraina 3 đã hoàn thành việc giải phóng Beograd và bắt đầu tiến lên tiếp cận khu vực tả ngạn sông Danube gần Sombor. Từ ngày 7 đến ngày 9 tháng 12 năm 1944, Tập đoàn quân 57Tập đoàn quân cận vệ 4 của Phương diện quân này đã tổ chức vượt sông Danube tại các khu vực Sombor, ApatinKaposhvarz (???). Đến ngày 3 tháng 12, Phương diện quân Ukraina 3 đã tiếp cận bờ phía Đông Nam hồ Balaton tại Tây Nam của Budapest mà hầu như không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào. Tập đoàn quân 46 sau khi đánh lùi cuộc phản kích của Sư đoàn xe tăng 20 (Đức) và Sư đoàn xe tăng 1 (Hungary) cũng hội quân với Tập đoàn quân cận vệ 4 tại khu vực hồ Velence.[12] Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 (Liên Xô) và Quân đoàn xe tăng 23 cũng trở lại đội hình Phương diện quân Ukraina 2 sau khi được bổ sung xe tăng và các tổ lái. Quân đoàn xe tăng 18 được phối thuộc cho Tập đoàn quân cận vệ 7. Tập đoàn quân Bulgaria 1 của tướng Vladimir Stoychev cũng vượt sông Drava trên khu vực Virivititsa (???) (Nam Tư) và bắt đầu tiến quân trên đất Hungary.[20] Sự tham gia của Phương diện quân Ukraina 3 trên hướng Budapest đã tăng cường đáng kể binh lực tấn công của quân đội Liên Xô tại hướng này, làm tăng mật độ tập trung binh lực cũng như sức mạnh đột phá của các mũi tiến công của Hồng Quân thêm rất nhiều. Quân đội Liên Xô đã có thể thực hiện kế hoạch tấn công Budapest từ nhiều hướng: Đông, Bắc, Đông Nam, Nam và Tây Nam. Ý định của quân đội Liên Xô trong giai đoạn này là bao vây thành phố này bằng hai gọng kìm lớn: gọng phía Bắc bao gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 và Cụm kỵ binh cơ giới hóa Pliyev đánh từ Sahy và gọng phía Nam do quân đoàn cơ giới cận vệ số 2 đánh từ một đầu cầu nhỏ trên sông Danube, gần Szekesfehervar lên Esztergom ở phía Tây Budapest.[14]

Quân đội Đức Quốc xã cũng được Bộ tư lệnh Tối cao Lục quân Đức (OKH) tăng viện đáng kể. 5 sư đoàn xe tăng (trong đó có 2 sư đoàn SS), 2 sư đoàn kỵ binh và 1 sư đoàn bộ binh được điều đến mặt trận Hungary. Trong số các xe tăng được gửi đến có 60 chiếc Tiger II và hàng trăm chiếc Tiger I. Đến đây thì xảy ra một cuộc tranh cãi nảy lửa giữa Bộ tư lệnh Đức và tướng Johannes Frießner, chỉ huy Cụm Tập đoàn quân Nam, về việc nên sử dụng số viện binh này ở đâu, tại phía Đông Bắc chống lại Tập đoàn quân xe tăng cận vệ số 6 hay là ở phía Tây Nam chống lại các mũi tiến công của Phương diện quân Ukraina 3 vừa mới xuất hiện trong khu vực hồ Balaton. Vấn đề trở nên phức tạp hơn khi thời tiết trong vùng diễn biến xấu và hạn chế đáng kể khả năng cơ động của xe tăng. Cuối cùng, Frießner quyết định điều các lực lượng bộ binh (thuộc các đơn vị thiết giáp tăng viện) ở phía Bắc và điều thành phần xe tăng còn lại xuống phía Nam.[12]

Từ đầu tháng 12 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 2 bắt đầu mở lại các chiến dịch đệm tại khu vực phía Bắc và phía Đông Budapest để tạo thế cho các hoạt động tấn công lớn tiếp theo. Ngày 3 tháng 12, Tập đoàn quân 27 đánh chiếm Miskolc. Tập đoàn quân 40 và Tập đoàn quân Romania 4 phát triển lên phía Bắc đến biên giới Hungary - Slovakia, cắt đứt tuyến đường sắt Miskolc đi Koshitse[cần dẫn nguồn], chia cắt Tập đoàn quân 8 (Đức) ở Đông Bắc Hungary với Tập đoàn quân xe tăng 1 (Đức) ở Slovakia. Trên hướng Eger và Hatvan, từ ngày 26 tháng 11 đến ngày 5 tháng 12, Cụm kỵ binh cơ giới của tướng Pliyev, Tập đoàn quân 53 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 đã tổ chức 21 trận đội kích vào phòng tuyến của quân Đức - Hungary dọc theo con đường sắt từ Miskolc đi Budapest. Ngày 5 tháng 12, phòng tuyến này bị đục thủng tại 5 vị trí ở phía đông Hatvan và phía Nam Eger. Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 kéo quân đánh chiếm Hatvan và tấn công lên Balaszadiarmat. Cụm kỵ binh cơ giới (Liên Xô) tấn công Sahy. Ngày 15 tháng 11, Balaszadiarmat, Sahy và Vasz (???) đã nằm trong tay quân đội Liên Xô. Gọng kìm phía Bắc Budapest đã hình thành.[17]

Tại hướng Đông Nam, trong suốt thượng tuần tháng 12 năm 1944, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 bị sa lầy tại hệ thống phòng tuyến Margareithe của quân Đức - Hungary giữa hồ Balaton và ngoại vi phía Nam Budapest. Nguyên soái S. K. Timoshenko quyết định điều Quân đoàn xe tăng 18 khỏi Tập đoàn quân cận vệ 7 để tăng cường cho hướng này. Tập đoàn quân cận vệ 7 được điều lên hướng Bắc Budapest. Tại vòng vây phía Đông Budapest chỉ còn lại Quân đoàn bộ binh cận vệ 18, Quân đoàn bộ binh 30 và Quân đoàn bộ binh 7 (Romania). Tuy nhiên, sức kháng cự của quân Đức và Hungary tại phòng tuyến Margareithe đã làm cho cuộc bao vây Budapest của quân đội Liên Xô chưa thể thực hiện trong nửa đầu tháng 12 năm 1944.[12]

Ngày 15 tháng 12 năm 1944, Phương diện quân Ukraina 3 báo cáo kế hoạch bao vây Budapest lên Đại bản doanh. Ngày 17 tháng 12, đến lượt Phương diện quân Ukraina 2 cũng nộp báo cáo kế hoạch của mình. STAVKA phê chuẩn ngay cả hai bản kế hoạch này và lưu ý Nguyên soái Tolbukhin không được để cho quân của mình bị hút theo hướng Viên. STAVKA cho các phương diện quân 3 ngày để tiến hành trinh sát, chuẩn bị pháo binh, không quân, các cơ số đạn dược, xăng dầu và lương thực. Trinh sát của các tập đoàn quân, quân đoàn và sư đoàn được yêu cầu phải phát hiện tất cả các hỏa điểm của quân Đức. Trường hợp các hỏa điểm bị che khuất sẽ giao cho không quân giải quyết. Căn cứ theo các thông tin thu thập được về hệ thống phòng ngự cứng rắn cũng như lực lượng thiết giáp đông đảo của phía Đức, lực lượng pháo binh Liên Xô đã được đặc biệt tăng cường và củng cố với mức độ đáng kể. Thật vậy, mặc dù STAVKA không cho phép dùng các pháo tự hành và pháo chống tăng vào việc bắn chuẩn bị mà chỉ dùng để phối hợp với không quân chống lại lực lượng xe tăng đối phương, mật độ pháo binh của quân đội Liên Xô tại mặt trận Budapest cũng vẫn đạt mức độ rất cao. Tại Phương diện quân Ukraina 2, mật độ đó là 224 khẩu/km chính diện. Tại Phương diện quân Ukraina 3 cũng có đến 170 nòng pháo/km chính diện.[21]

Trong khi Bộ tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam Đức còn đang tranh cãi về việc bố trí lực lượng tăng viện thì ngày 20 tháng 12 năm 1944, các Phương diện quân Ukraina 2 và 3 đồng loạt chuyển trạng thái tấn công vào Budapest. Mũi đột kích phía Bắc gồm Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6, Cụm Kỵ binh cơ giới hóa Pliyev và Tập đoàn quân cận vệ 7 đã đánh vào sau lưng các tuyến phòng ngự của quân Đức và đến ngày 27 tháng 12 đã tiếp cận sông Danube đối diện phía Bắc Esztergom. Mũi đột kích phía Nam bao gồm Tập đoàn quân 46, Tập đoàn quân cận vệ 4 được mở đường bởi Quân đoàn xe tăng 18, Quân đoàn cơ giới cận vệ 2Quân đoàn cơ giới cận vệ 4 đã đập nát phòng tuyến Margareithe, đánh bại các sư đoàn xe tăng Đức không được bộ binh hỗ trợ. Ngày 25 tháng 12, các quân đoàn xe tăng và cơ giới Liên Xô đánh chiếm Szekesferhervar, Zamoi (???), Mor và vọt tiến lên phía Bắc. Ngày 26 tháng 12 năm 1944, Quân đoàn xe tăng 18 (Liên Xô) đánh chiếm Esztergom.[11] Ngày 27 tháng 12, Phương diện quân Ukraina 2 và 3 gặp nhau trên cây cầu phao bắc qua sông Danube tại Esztergom và khép vòng vây dọc theo tuyến sông Danube. 188.000 quân Đức và Hungary bị bao vây trong "cái chảo" Budapest. Thảm họa này đã khiến Đại tướng Johannes Frießner, Tư lệnh Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) cùng chỉ huy Tập đoàn quân số 6 (Đức), Thượng tướng Pháo binh Maximilian Fretter-Pico bị cách chức. Thay thế cho Frießner là Thượng tướng Bộ binh Otto Wöhler, nguyên tư lệnh Tập đoàn quân 8 (Đức), còn Thượng tướng Thiết giáp Hermann Balck - một trong những chỉ huy xe tăng có kinh nghiệm cuối cùng của nước Đức phát xít - lên nắm quyền Tập đoàn quân số 6.[12] Từ đầu năm 1945, quân đội Liên Xô triển khai chiến đấu trên cả vòng vây bên trong và vòng vây bên ngoài nhằm thanh toán các đơn vị Đức và Hungary nằm trong lòng Budapest cũng như ngăn chặn các cuộc phản công giải vây của quân Đức.

Giai đoạn thứ tư

Cái chết của những quân sứ Liên Xô

Giai đoạn thứ tư của Chiến dịch Budapest bắt đầu bằng bi kịch của những người quân sứ phía Liên Xô. Chỉ trong một ngày 29 tháng 12 năm 1944, hai nhóm quân sứ đàm phán hòa bình của quân đội Liên Xô đã bị quân đội Đức Quốc xã sát hại khi đi đàm phán với đối phương đề nghị ngừng bắn. Sau khi đã bao vây Budapest, đêm 28 rạng ngày 29 tháng 12 năm 1945, qua làn sóng điện đài và các loa phóng thanh tại mặt trận, Bộ chỉ huy các phương diện quân Ukraina 2 và 3 đều đồng loạt thông báo quân đội Liên Xô đề nghị ngừng bắn để bắt đầu đàm phán về các điều kiện đầu hàng của quân Đức - Hungary trong vòng vây tại Budapest nhằm tránh đổ máu không cần thiết. Phía Liên Xô cũng nói rõ sẽ cử hai nhóm quân sứ không mang vũ khí đi trên xe cắm cờ trắng sang trận tuyến quân Đức vào sáng hôm sau để trao tối hậu thư đề nghị quân Đức đầu hàng.[7]

10 giờ sáng ngày 29 tháng 12, tại địa đoạn mặt trận ở Budafok do Quân đoàn bộ binh 23, Tập đoàn quân 46 (Liên Xô) phụ trách; đại úy Ilya Afanasevich Ostapenko, phó tiểu đoàn trưởng về chính trị của Tiểu đoàn bộ binh 1, Trung đoàn 1077 thuộc Sư đoàn 316 cùng trung úy Nikolai Feoktistovich Orlov và trung sĩ Yefim Tarasovich Gorbatyuk không mang vũ khí cầm cờ trắng vượt sang phòng tuyến của quân Đức. Mặc dù quân Đức đã bắn quét trước mặt họ bằng súng máy nhưng đại úy I. A. Ostapenko vẫn dùng loa tay nói bằng tiếng Đức về mục đích của việc đàm phán. Quân Đức ngừng bắn và tiến ra vây lấy họ. Ba người lính Liên Xô bị bịt mắt và dẫn đến hầm chỉ huy của tướng Karl Pfeffer von Wildenbruch, tư lệnh các lực lượng Đức tại Budapest. Sau khi nghe các điều kiện do phía Liên Xô đặt ra về việc đầu hàng của quân Đức tại Budapest, tướng Karl Pfeffer von Wildenbruch từ chối và nói: "Binh lính Đức sẽ chiến đấu đến cùng". Không thuyết phục được Karl Pfeffer von Wildenbruch, ba người lính Liên Xô lại bị bịt mặt và đưa trở lại tiền duyên. Quân Đức bỏ băng bịt mắt cho họ đi về đơn vị của mình. Khi họ vừa đi được vài mét, quân Đức đã nổ súng từ phía sau. Đại úy I. A. Ostapenko trúng đạn chết ngay tại chỗ. Trung úy N. F. Orlov và trung sĩ Ye. T. Gorbatyuk nhảy xuống hố đạn pháo ẩn nấp và trốn thoát. Ngay sau đó, quân Đức dùng hỏa lực súng máy phong tỏa khu vực, ngăn cản mọi cố gắng thu hồi xác đại úy I. A. Ostapenko của Trung đoàn 1077 (Liên Xô). Mãi đến đêm 29 tháng 12, trinh sát của trung đoàn mới lấy được xác của I. A. Ostapenko. Đại úy được chôn cất ngay tại Budafok với các nghi thức quân sự.[7][18][22]

Sự việc xảy ra tại Phương diện quân Ukraina 2 còn bi thảm hơn. 11 giờ sáng ngày 29 tháng 12, tại phòng tuyến của Quân đoàn bộ binh 30 ở Kispest, đại úy Miklós Steinmetz cùng trung úy N. V. Kuznetsov và hạ sĩ tùy tùng P. A. Filimonenko di chuyển trên một chiếc xe con hiệu Volkswagen có cắm cờ trắng sang phòng tuyến của quân Đức để đàm phán ngừng bắn. Bất chấp nhưng lời kêu gọi liên tục của đại úy Miklós Steinmetz bằng cả tiếng Đức và tiếng Hungary, hỏa lực súng máy Đức từ ba phía đã quét ngang chiếc xe. Đại úy Miklós Steinmetz cùng trung úy N. V. Kuznetsov và hạ sĩ tùy tùng P. A. Filimonenko đều thiệt mạng.[22][23][24]

Quân Đức và Hungary phản công

Sư đoàn kỵ binh 8 SS "Florian Geyer" tham gia chiến dịch phản công Konrad I

Trong thời gian này, phương diện quân Ukraina 2 bắt đầu tập trung một lực lượng lớn dùng vào việc thủ tiêu "cái chảo" Budapest và, vô hình trung, đã làm binh lực tại vòng vây phía Tây thành phố trở nên mỏng đi. Người Đức đã không bỏ qua cơ hội này. Quân đội Đức Quốc xã không chấp nhận dễ dàng để mất thành phố và bắt đầu dốc toàn lực để phá vỡ vòng vây của quân đội Liên Xô tại đây. Từ ngày 5 đến ngày 8 tháng 1 năm 1945, Đại tướng Heinz Guderian, Tổng tham mưu trưởng mới của Bộ Tổng tư lệnh Lục quân Đức đã đến Komarno để kiểm tra tình hình sau khi tướng Otto Wöhler được cử thay tướng Johannes Frießner chỉ huy Cụm tập đoàn quân Nam. Otto Wöhler báo cáo cho Heinz Guderian biết ông ta đã nhận được tăng viện 5 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn kỵ binh, 1 sư đoàn bộ binh lấy từ lực lượng dự bị, từ Ý, từ Cụm tập đoàn quân B và từ Croatia rút về.[25]

Ngày 22 tháng 12 năm 1944, tại Szekesferhervar, trinh sát của Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) thu được hai tấm bản đồ của Sư đoàn xe tăng 20 (Đức). Trên bản đồ có đánh dấu vị trí của cơ quan chỉ huy các quân đoàn xe tăng 3 và 57 (Đức), các sở chỉ huy của các sư đoàn xe tăng 1, 3, 6, 8, 23 và trung đoàn xe tăng hạng nặng 130 (Đức) ở khu vực hồ Balaton. Ngày 1 tháng 1 năm 1945, trinh sát của cả hai phương diện quân Liên Xô đã xác định được lực lượng thiết giáp Đức tập trung tại khu vực xung quanh Budapest gồm 13 sư đoàn xe tăng, 2 sư đoàn cơ giới hóa và một lữ đoàn cơ giới hóa, một mật độ tập trung binh lực xe tăng cao hiếm có đối với quân đội Đức Quốc xã ở mặt trận phía Đông. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô nhận định, việc tập trung xe tăng với mật độ cao như vậy chắc chắn chỉ để nhằm phản công.[10] Quả thật, trong suốt thời gian từ ngày 21 tháng 12 đến 31 tháng 12 năm 1944, Bộ tham mưu của Cụm tập đoàn quân Nam (Đức) khẩn trương chuẩn bị một kế hoạch lớn mang mật danh "Konrad".

Đêm mùng 1 rạng ngày 2 tháng 1 năm 1945, chiến dịch phản công mang tên "Konrad" giai đoạn 1 được khởi động. Trên vòng vây bên ngoài Budapest, các sư đoàn xe tăng Đức liên tục tổ chức nhiều trận phản kích dữ dội nhằm phá vỡ vòng vây. Tại mũi tấn công ở khu vực Komarno với sự tham gia của các sư đoàn xe tăng 3 và 6 (Đức) có mật độ xe tăng đạt tới 30-40 chiếc/km chính diện mặt trận. Mũi tấn công phía Tây Nam Budapest có sự tham gia của Quân đoàn xe tăng 4 SS cũng có mật độ xe tăng rất cao lên từ 50 đến 60 chiếc/km chính diện. Ngày 6 tháng 1, các sư đoàn xe tăng 3 và 6 (Đức) đánh lùi Quân đoàn bộ binh 31 (Liên Xô) và đẩy Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) lùi về tuyến Esztergom, Dorog, Jambek (???), Tatabanija (Tatabanya). Ngày 9 tháng 10, Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 và Tập đoàn quân cận vệ 7 (Liên Xô) tổ chức đột kích về hướng Komarno, đánh chiếm Marszelob (???) nhưng đã bị Sư đoàn xe tăng 8 (Đức) đột kích từ Novi Zamki xuống sườn phải và buộc phải lùi về bên kia sông Hron tại Kabelkut (???).[26]

Ở Tây Nam Budapest, quân Đức vẫn không dừng lại. Ngày 7 tháng 1, tận dụng thành quả của Quân đoàn xe tăng 4 SS, Quân đoàn xe tăng 3 (Đức) cũng tổ chức tấn công gần Esztergom và Szekesfehervar trong giai đoạn II của Chiến dịch Konrad nhằm chiếm lại sân bay Budapest để cải thiện khả năng tiếp tế cho số quân bị vây. Giống như lần trước, đợt tấn công này đã bị Tập đoàn quân cận vệ 4 (Liên Xô) chặn đứng gần khu vực sân bay. Quân đoàn xe tăng 4 SS và Tập đoàn quân 3 Hungary đã tạo ra mối đe dọa thực sự cho vòng vây của quân đội Liên Xô tại khu vực giữa hồ Balaton và hồ Velence. Huy động 560 xe tăng có trong tay, ý đồ của tướng Otto Wöhler là dùng ba mũi tấn công bằng xe tăng. Mũi thứ nhất từ Đông Bắc Inota tấn công theo hướng Zamoj (???) và Szakvar (Csakvar), hội quân với mũi tấn công phía Bắc ở Bizhke (Bicske), bao vây chia cắt Quân đoàn kỵ binh cận vệ 5 và Tập đoàn quân 68 (Liên Xô) ở khu vực Hant (Gant) - Szakvar. Mũi thứ hai có chiều sâu lớn hơn, từ phía Đông Veszprem đánh sang phía Đông, đến Sapozd (Sarosd) thì chia làm hai cánh. Cánh phải tiến ra sông Danube tại Dunapentele (???) che chở sườn phải cho mũi tấn công chính. Cánh trái vòng qua phía Đông hồ Vemnce lên hướng Bắc đến Barazka (Baracska), đánh vào sau lưng quân đoàn bộ binh 135, các quân đoàn bộ binh cận vệ 20, 21 và Quân đoàn cơ giới 7 tại khu vực ngoại vi phía Tây Budapest. Ngoài ra, Tập đoàn quân 3 (Hungary) cũng được giao nhiệm vụ tấn công dọc theo kênh Szio, che chắn sườn phải cho toàn bộ cánh quân xe tăng Đức.[26]

Từ ngày 7 đến ngày 20 tháng 1 năm 1945, các cánh quân xung kích Đức đã hoàn thành gần hết những nhiệm vụ nói trên. Mũi tấn công xe tăng thứ nhất gồm 1 sư đoàn xe tăng, 1 lữ đoàn kỵ binh Đức đã đẩy lùi Quân đoàn bộ binh cận vệ 20 (Liên Xô) đến Zamoi và bị chặn lại tại đây ngày 11 tháng 1 năm 1945. Mũi tấn công chính gồm các sư đoàn xe tăng 12, 18 SS và các sư đoàn kỵ binh 22 và 37 đã đánh bật quân đội Liên Xô khỏi Szeregejes (Seregelyes). Ngày 20 tháng 1, cánh quân của Sư đoàn xe tăng 12 SS đã tiến ra sông Danube tại Dunapentele. Cánh quân của Sư đoàn xe tăng 18 tiến đến Barachka. Cuộc tấn công này suýt nữa đã nghiền nát Quân đoàn xe tăng 18 (Liên Xô), nhưng khi quân Đức tiếp cận được Biscke, một địa phương chỉ cách Budapest 20 cây số, lực lượng dự bị của Tập đoàn quân số 46 và Tập đoàn quân xe tăng cận vệ 6 đã kịp thời có mặt tại trận địa, chặn đứng quân Đức. Ngày 20 tháng 1, sau nhiều đợt tấn công không có kết quả, viện binh Đức buộc phải dừng lại. Mặc dù không thành công trong việc giải vây cho Budapest, những diễn biến đầu tháng 1 khiến David M. Glantz nhận xét rằng vòng vây của quân đội Liên Xô ở Tây Nam Budapest tương đối yếu và có thể sẽ bị chọc thủng nếu quân Đức tập trung một lượng binh lực lớn hơn.[27]

Đối phó lại, Phương diện quân Ukraina 3, lực lượng chủ yếu chịu các cuộc tấn công của quân Đức, đã xây dựng một hệ thống phòng ngự chiều sâu nhiều tầng nhiều lớp dựa theo kinh nghiệm của trận Vòng cung Kursk (với chiều sâu trận tuyến lên đến 25-50 cây số) cùng một hệ thống pháo chống tăng và pháo binh dày đặc, có nơi lên tới 160-170 khẩu/km chính diện. Thông tin tinh báo chính xác cũng đã giúp phía Liên Xô kịp thời phát hiện và điều động các đơn vị xe tăng và pháo tự hành đến những nơi nguy hiểm, chặn đứng các mũi công kích mạnh của phía Đức. Ngày 20 tháng 1, Nguyên soái F. I. Tonbukhin đã thành lập được hai cụm quân xung kích mạnh để chống lại cuộc phản công của quân đội Đức Quốc xã. Cụm Bắc tập kết ở sát phía Tây Budapest gồm Quân đoàn xe tăng 23 và các quân đoàn kỵ binh 1 và 5. Cụm Nam tập kết ở khu vực Dunafioldvar (Dunafoldvar) gồm Quân đoàn xe tăng 18 và các quân đoàn bộ binh 30 và 133. Bộ Tổng tham mưu Liên Xô cũng điều Tập đoàn quân 27 từ Phương diện quân Ukraina 2 sang tăng cường cho Phương diện quân Ukraina 3 giữ tuyến sông Danube từ Erszi đến Dunapentele. Tập đoàn quân 26 được đưa từ lực lượng dự bị của STAVKA đến khu vực Szesze (???) sẵn sàng tham chiến cùng với cánh quân xung kích.[28]

Ngày 21 tháng 1, Quân đội Liên Xô chuyển sang thế trận phản đột kích. Từ Erie (???) và Tuszkulanum (???), cánh quân xung kích phía Bắc chặn đứng các sư đoàn xe tăng 1 và 18 SS, tiến xuống phía Nam, chiếm lĩnh lối đi hẹp giữa hồ Velence và hồ Balaton tại Szeregejes. Mũi tấn công cánh trái gồm các trung đoàn pháo tự hành của các quân đoàn kỵ binh cận vệ 1 và 5 tiến ra Szarosd (Sarosd), đón gặp cánh quân xung kích từ phía Nam lên. Đến ngày 24 tháng 1, quân Đức chỉ còn cách Budapest 25 cây số về phía Nam. Và đây chính là cơ hội cho Cụm quân Đức bị vây đánh từ trong thành phố ra để phối hợp với viện binh mở vây. Song, cũng giống như ở Stalingrad, theo lệnh tử thủ của Hitler, số quân bị vây trong thành phố không được phép tổ chức phá vây ra ngoài mà phải cố thủ để cho quân tiếp viện một mình chọc thủng vòng vây. Một lần nữa, cơ hội sống sót của 188.000 quân Đức tại Budapest đã bị bở lỡ.[27] Bị uy hiếp từ hai bên sườn và rơi vào nguy có bị bao vây, chia cắt, các cánh quân xe tăng của Quân đoàn xe tăng 4 SS buộc phải quay ra đối phó với các đòn đột kích từ hai bên sườn của quân đội Liên Xô. Mũi tấn công của quân Đức sau mấy ngày kịch chiến cũng đã hao tổn nặng nề và không còn khả năng tiếp tục tấn công. Không còn cách nào khác, ngày 27 tháng 1 quân Đức buộc phải rút lui về tuyến xuất phát. Kế hoạch giải vây cho Budapest xem như thất bại hoàn toàn. Mặc dù quân đội Liên Xô vẫn đứng vững sau các cuộc tấn công, những thành công tạm thời của viện binh Đức đã gieo vào đầu Hitler một ý tưởng mà sau này trở thành trận chiến tại hồ Balaton vào tháng 3 năm 1945.[12]

Giai đoạn thứ năm

Trong khi cuộc chiến chống phá vây đang diễn ra quyết liệt và dữ dội, cuộc chiến thanh toán số quân bị vây trong thành phố cũng diễn ra giằng co không kém. Quân Đức và Hungary đã làm mọi việc có thể để biến Budapest thành một pháo đài khổng lồ, đồng thời phía Đức không hề tỏ thái độ muốn đầu hàng một cách dễ dàng. Ngày 29 tháng 12, phía Liên Xô cử hai đoàn quân sứ đến các Sở chỉ huy của tướng Karl Pfeffer von Wildenbruch và tướng Gerhard Schmidhuber để gửi tối hậu thư yêu cầu đầu hàng không điều kiện và hứa sẽ đối xử với các tù binh một cách nhân đạo. Tuy nhiên yêu cầu của họ đã bị từ chối thẳng thừng và các sứ giả Liên Xô đều bị quân Đức bắn chết.[10] Những gì diễn ra trong giai đoạn đầu của cuộc bao vây đã cho thấy tiêu diệt "cái chảo" Budapest đòi hỏi một nỗ lực và thời gian không nhỏ.[27]

Hồi 0 giờ 30 phút ngày 22 tháng 1 năm 1945, STAVKA ra Chỉ lệnh số № 11013 gửi các tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2Phương diện quân Ukraina 3, yêu cầu tiêu diệt cánh quân Đức đang tấn công từ bờ Nam sông Danube tới hồ Velence:

Nhằm tiêu diệt địch, đánh chiếm khu vực bờ Nam sông Danube đến Velence, Đại bản doanh Bộ Tổng tư lệnh tối cao ra lệnh:1. Chỉ huy Phương diện quân Ukraina 2 có nhiệm vụ:a) Mở cuộc tấn công để vượt qua tuyến phòng thủ chặt chẽ ở khu vực Komárnob) Đến ngày 25 hoặc 26 tháng 1 phải tập trung Quân đoàn xe tăng 23 ở phía Tây và Tây Nam Budapest để phối hợp với cánh quân xung kích của Phương diện quân Ukraina 3 tấn công từ sông Danube và Sharashd đến hồ Velence. Thanh toán cánh quân địch bị bao vây ở Budapest.2. Chỉ huy Phương diện quân Ukraina 3 có nhiệm vụ:a) Bổ sung xe tăng và pháo tự hành cho Quân đoàn xe tăng 18 và đưa đến phòng tuyến của Quân đoàn bộ binh 133 không muộn hơn ngày 25 tháng 1. Đến ngày 26 tháng 1, phải sử dụng 4 đến 5 sư đoàn tấn công dọc theo kênh Sharviz - Danube hướng tới Sharashda theo hướng đối diện với cánh quân xung kích của Phương diện quân Ukraina 2.b) Tổ chức phòng thủ chặt chẽ trên bờ đông sông Danube, trong các khu vực hồ Balaton và kênh Sharviz.3. Báo cáo về việc thực hiện mệnh lệnh.
— Thay mặt STAVKA
I. V. Stalin - A. I. Antonov[29]
Budapest trong vòng vây

Thực hiện chỉ lệnh này, Phương diện quân Ukraina 2 đã phải dành ra một lực lượng lớn để thành lập hai cụm tác chiến chỉ với một nhiệm vụ duy nhất là quét sạch toàn bộ quân địch trong lòng thủ đô Hungary. Cụm thứ nhất bao gồm các quân đoàn bộ binh cận vệ 10, 27 và Quân đoàn bộ binh 23 thuộc của Tập đoàn quân 46 có nhiệm vụ xử lý khu vực Buda là khu pháo đài cổ của Budapest nằm trên vùng đồi núi hữu ngạn sông Danube. Cụm thứ hai bao gồm các quân đoàn bộ binh Romania 7, 18 và Quân đoàn bộ binh 30 (Liên Xô) thuộc Tập đoàn quân cận vệ 7 có nhiệm vụ xử lý khu vực Pest là khu đô thị của Budapest nằm trên tả ngạn sông Danube. Tổ chức chỉ huy lỏng lẻo này dưới sự đồng điều khiển của hai tập đoàn quân không giành được kết quả đáng kể trong mấy ngày cuối của năm 1944. Trước tình hình các mũi tấn công tiến triển chậm, vào ngày 10 tháng 1 năm 1945, Đại bản doanh đã yêu cầu nguyên soái R. Ya. Malinovsky - tư lệnh Phương diện quân Ukraina 2 - thiết lập một cơ cấu tổ chức chặt chẽ và tập trung hơn cho khối quân đang tảo thanh "cái chảo" Budapest. Ngay ngày hôm sau (11 tháng 1), Nguyên soái R. Ya. Malinovsky bổ nhiệm thiếu tướng I. M. Afonin, tư lệnh Quân đoàn xe tăng 18, làm chỉ huy trưởng toàn bộ Cụm tác chiến chiến dịch Budapest.[27]

Chiến sự tại Budapest vẫn tiếp tục bùng nổ một cách ác liệt với mức độ tàn khốc không thua kém gì so với trận Stalingrad trước kia. Trong thời tiết lạnh giá, tuyết rơi dày đặc và sương mù che kín trận địa, những trận đánh đẫm máu, giằng co đã diễn ra trong từng tòa nhà, từng con phố bị hai bên giành đi giật lại nhiều lần. Tuy nhiên, quân đội Liên Xô vẫn dần dần tìm được cách đột nhập sâu vào trong nội đô thành phố bằng việc sử dụng các đơn vị công binh đào hầm và các xạ thủ bắn tỉa để thanh toán dần các ổ đề kháng của quân đồn trú.[30] Đồng thời, trong tình thế bị bao vây, số đạn dược và nhiên liệu, quân nhu dự trữ có hạn của quân đồn trú dần dần vơi cạn. Các xe tăng và đại bác của họ không còn phát huy hỏa lực mạnh mẽ vốn có của nó. Ngày 12 tháng 1 năm 1944, quân đội Liên Xô đã đoạt được một tuyến đường băng quan trọng vốn là nơi hạ cánh khẩn cấp cho các máy bay vận tải Ju-52 làm nhiệm vụ tiếp tế. Sang ngày 14, quân đội Liên Xô tại Pest đã tiếp cận được sông Danube, chia cắt khối quân Đức đồn trú tại Pest thành hai mảnh. Đảo Csepel, nơi trú đóng của các cơ sở sản xuất đạn dược và súng chống tăng cho quân Đức, cũng bị đánh chiếm vào giữa tháng 1.[23] Ngày 17 tháng 1, tàn binh Đức chạy dạt về phía bờ sông tìm cách rút lui sang phía Buda, nhưng không hề biết rằng quân đội Liên Xô đã sử dụng những đường cống dẫn nước ngầm để đến bờ sông trước họ và phục sẵn tại đó. Đến đây, toàn bộ nửa phía Đông của Budapest đã sạch bóng quân Đức. Một nửa binh lực của quân đoàn sơn chiến SS số 9 xem như đã bị xóa sổ. Tổng cộng hơn 36.000 quân Đức tử trận và 63.000 quân bị bắt làm tù binh tính đến ngày 18 tháng 1.[27]

Sau khi Pest được giải phóng, Đại bản doanh ra lệnh cho Phương diện quân Ukraina 2 tiếp tục tiến qua hữu ngạn sông Danube để xử lý khu vực Buda, còn Phương diện quân Ukraina 3 sẽ chỉ tập trung củng cố vòng vây ngoài, đề phòng quân Đức tiếp tục tấn công giải vây. Lực lượng Liên Xô tại khu vực Buda gồm các quân đoàn bộ binh 37 và 75. Giống như ở Pest, quân đồn trú Đức tại Buda cũng tổ chức chống cự dữ dội, bám trụ từng căn nhà, từng góc phố, dựa vào địa hình nhiều đồi núi và pháo đài kiên cố tại Buda để cầm chân quân đội Liên Xô. Cuộc chiến diễn ra đặc biệt ác liệt tại đảo Margit, đồi Gellért (nơi tọa lạc của pháo đài Citadella) và khu nghĩa trang của thành phố nằm gần đó. Ngày 22 tháng 1, tướng I. M. Afonin bị thương trong khi chỉ huy tác chiến. Thượng tướng I. M. Managarov, chỉ huy Tập đoàn quân 53 và là một sĩ quan dày dạn kinh nghiệm trong chiến tranh đô thị được cử lên thay. Đầu tháng 2 năm 1945, cuộc chống cự của quân đồn trú cũng đi vào đoạn kết khi quân đội Liên Xô đã làm chủ được phần lớn thành phố. Sau 2 ngày chiến đấu quyết liệt, nhà ga Budapest bị đánh chiếm và từ đây, quân đội Liên Xô công kích vào khu vực cung điện Buda và đến ngày 10 tháng 2 đã chiếm được một bàn đạp tại khu vực này.[18] Sang ngày 11 tháng 2, đến lượt cụm quân Đức đồn trú tại đồi Gellért bị tiêu diệt sau 6 tuần chống cự. Trước tình hình tuyệt vọng, đêm 11 rạng ngày 12 tháng 2, 26.000 quân Đức dưới sự chỉ huy của Karl Pfeffer von Wildenbruch đã tổ chức một cuộc phá vây lớn từ Budapest tiến ra Perbal. Tuy nhiên lực lượng phá vây không hề biết rằng phía Liên Xô đã tổ chức mai phục sẵn tại quảng trường Széll Kálmán và thế là nỗ lực phá vây trở thành một trận đánh đẫm máu. Tuyệt đại bộ phận lực lượng phá vây đã bị quân đội Liên Xô tiêu diệt. Sang ngày hôm sau (13 tháng 2), tàn binh còn lại của quân Đức đã đầu hàng.[27] Toàn bộ ban chỉ huy của lực lượng đồn trú, trong đó có các tướng Karl Pfeffer von Wildenbruch (Đức) và tướng Hindy Iván (Hungary) bị bắt sống. Tướng Gerhard Schmidhuber (Đức) tử trận.[23][25]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Chiến_dịch_Budapest http://books.google.be/books?id=cLY1z-XLd_IC&pg=PR... http://books.google.com/books?id=NilW70Yol74C http://books.google.com/books?id=tAOgAAAAMAAJ http://www.youtube.com/watch?v=S7tYf2zUNqc http://www.youtube.com/watch?v=SO_JT_x8CbI http://www.youtube.com/watch?v=gGgOviJ_Pzk http://www.youtube.com/watch?v=hzuhjW9HSx0 http://muse.jhu.edu/journals/past_and_present/v188... http://www.piter.fm/artist/%D0%BC%D0%B0%D1%80%D0%B... http://cadmus.iue.it/dspace/bitstream/1814/2599/1/...